Mặc dù có xuất xứ từ Nam Mỹ, những trái dứa với tên khoa học là Ananas comosus đã nhanh chóng “vượt biên” đến với quần đảo Guadeloupe ở Caribbean và luôn hiện diện ở đây cho đến khi Christopher Columbus phát hiện ra chúng vào năm 1493 khi ông đến khám phá vùng đất này.
Rời khỏi Guadeloupe, Columbus đã cùng đoàn thủy thủ của mình đem loại trái này về Tây Ban Nha. Ở đây, dứa nhanh chóng được người dân ưa thích vì vị ngọt dịu của nó. Những người châu Âu đã cố gắng tìm cách để trồng loại trái cây này nhưng rồi họ phát hiện dứa chỉ có thể trồng ở những vùng có khí hậu nhiệt đới. Không trồng được dứa ở châu Âu, người Tây Ban Nha chỉ có thể nhập những trái từ vùng biển Atlantic để thưởng thức thứ trái cây này. Tuy nhiên, vì quá xa và mất nhiều thời gian vận chuyển, những trái dứa thường bị dập và bắt đầu hư thối khi đến nơi.
Cho đến giữa thế kỷ 17, bằng cách tạo ra một môi trường nhiệt đới có nhiệt độ và độ ẩm cần thiết để giống cây này phát triển, Anh và Hà Lan đã góp phần tăng sản lượng dứa trên thị trường.
Mặc dù thế, vẫn có sự cách biệt rất lớn về cung và cầu, khi có quá nhiều người muốn thưởng thức dứa nhưng lại có rất ít nơi có thể trồng được, dứa trở thành thực phẩm chỉ dành cho giới quý tộc. Những người trong hoàng gia như vua Louis XV, Catherine Đại Đế và vua Charles Đệ Nhị (người từng ra lệnh cho họa sĩ vẽ bức tranh một người làm vườn đang dâng cho ông một trái dứa) rất thích ăn những trái cây có vị ngọt và từ đó mà dứa biến thành một biểu tượng của sự sang trọng và giàu có.
Ở các thuộc địa Mỹ vào thế kỷ 18,, dứa cũng nhận không ít sự “quý trọng” và thích thú của người dân. Được nhập khẩu từ quần đảo Caribbean, những trái dứa ở Mỹ trị giá đến $8000/quả (tính theo giá hiện nay). Việc dễ hư hỏng, mới lạ và sự khan hiếm đã khiến dứa trở nên đắt giá hơn bao giờ hết. Những thực dân có địa vị thường khoe khoang sự giàu có, hiếu khách và vị trí xã hội của mình bằng cách tổ chức các buổi tiệc và trưng bày dứa ở nơi sang trọng và bắt mắt nhất để chỉ cần vừa bước vào nhà, các vị khách đã có thể thấy sự giàu có của chủ nhà. Tuy nhiên, vào thời kỳ này, dứa thường được dùng như một vật trang trí và người ta chỉ ăn dứa khi nó bắt đầu bị hư thối đi.
Muốn biết dứa quý giá và xa hoa như thế nào, hãy tìm đến những chợ cho thuê dứa. Loại trái cây này tạo nên sự ghen tị trong tầng lớp nghèo không có khả năng mua dứa đến mức họ có thể chấp nhận trả tiền để thuê 1 trái dứa trong 1 đêm nếu cần. Trước khi bán những trái dứa ra thị trường, thương nhân thường cho những người không đủ tiền mua dứa thuê và những người thuê dứa sẽ đem nó đến các buổi tiệc, không phải tặng cho chủ nhà mà họ sẽ đem nó đi vòng quanh và khoe khoang rằng họ có đủ khả năng chi trả cho 1 loại thực phẩm đắt giá như dứa.
Vào thế kỷ 18 và 19, họa sỹ đã đem dứa vào các tác phẩm của họ để thể hiện sự hào phóng và khoãn đãi. Khăn ăn, khăn trải bàn, giấy dán tường và đến cả đầu giường đều được vẽ hoặc khắc hình dứa để những vị khách cảm thấy thoải mái khi đến chơi. Nếu như chủ nhà không đủ khả năng để mua hoặc thuê dứa, họ có thể mua những đĩa sứ hoặc ấm trà hình dứa, những vật dụng tạo nên cơn sốt vào những năm 176x.
Nhưng rất nhanh sau đó vào năm 1900, khi kỷ nghệ gia James Dole bắt đầu trồng dứa ở Hawaii với mong muốn có thể dùng doanh nghiệp của anh ấy, Công ty Hawaiian Pineapple mà sau này là công ty Dole Food, để bán và phân phối dứa ra thị trường. Anh ấy đã thành công vượt bậc ngoài mong đợi – trong 7 thập kỷ, công nghệ Lana’I của anh ấy đã sản xuất hơn 75% dứa trên thế giới – và đến nay công ty vẫn đang phát triển mạnh. Tình yêu đối với loại trái cây này vẫn không hề hạ nhiệt và nó vẫn thường xuyên xuất hiện trong các motif trang trí. Có thể nói, Dole chính là người có đóng góp nhiều nhất vào sự phát triển dứa, từ một loại trái đắt giá thành một sản phẩm dễ dàng tiếp cận với người dùng.
Nguồn: Mental Floss
Năm 2010, nhà nước hoa Creed tạo nên Aventus for Men.